Xã hội Nhà_Liêu

Đồ nội thất thời Liêu, khai quật trong một cung điện bị chôn vùi ở Thiên Thai Tháp, Phòng Sơn, Bắc KinhBích họa mô tả cảnh chuẩn bị ăn trong một lăng mộ ở kỳ Ngao Hán, Nội Mông

Xã hội và phong tục Khiết Đan vốn không giống như người Hán, triều Liêu thống trị người Hán tại Yên Vân thập lục châu cũng giống như triều đình Trung Nguyên; người Khiết Đan ở phương bắc thì sinh hoạt theo tục cũ; ở khu vực hòa trộn dân tộc thì xuất hiện hình thái hỗn hợp. Người Khiết Đan có nhiều lễ nghi như bái nhật, sài sách, tái sinh, tế sơn, xạ quỷ tiễn. Người Khiết Đan có phương thức sinh hoạt đặc biệt là "nại bát" bốn mùa, hoàng đế Liêu mang theo bá quan chính quyền trung ương, một năm bốn mùa đến các địa phương tuần thú, lều cung được dựng tại địa phương là "nại bát". Ngoài ra, còn có các tập quán sinh hoạt như "đầu ngư yến", "đầu nga yến". Văn hóa ẩm thực Khiết Đan tương ứng với điều kiện địa phương, có mứt, quả khô, là dùng mật ngâm tẩm quả để bảo quản được lâu, đặc sản mơ khô của Bắc Kinh ngày nay là kế thừa phương pháp làm quả khô từ thời Liêu.[62]:161

Trong sinh hoạt thường ngày, người Khiết Đan với truyền thống dân tộc Bắc Á, phần lớn dùng áo làm từ da dê cáo, còn quan lại quý tộc thì chủ yếu mặc áo làm từ da chồn, đồng thời cũng mặc đeo phục sức tơ lụa, trang sức kết hợp tương đối nhiều. Uống rượu ăn thịt là việc phổ biến đối với người Khiết Đan họ sống chủ yếu trong lều, cũng có người cư trú trong cung thất. Đấu vật, đá cầu, thi săn bắn, cờ vây, cờ tào cáo đều là những hoạt động trong lúc rảnh rỗi của người Khiết Đan. Về phong tục theo mùa, người Khiết Đan và Hán đều có, song tập quán xưa của người Khiết Đan là chính, như vào ngày Nguyên Đán thì lấy gạo non và tủy dê trắng để làm bánh, ngày mùng bảy tháng giêng thì nhân dịp 'nhân nhật' mà ăn bánh rán và gọi là 'huân thiên bính' (bánh hương trời). Ngoài ra, người Khiết Đan còn coi trọng Trung Hòa, Thượng Tị, Đoan Ngọ, Hạ Chí, Trung Nguyên, Trung Thu, Trùng Cửu, Đông Chí, các ngày tết này đều từ Trung Nguyên truyền đến một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, phong tục nhìn chung là tương đồng. Tuy nhiên, một số tiết mặc dù có tên tương đồng song bảo lưu phong tục và nghi thức vốn có của người Khiết Đan.[62]:162

Vào thời kỳ đỉnh cao, ước tính Liêu có khoảng 750.000 người Khiết Đan và từ hai đến ba triệu người Hán.[63]

Tầng lớp tinh hoa người Hán có một vị trí nổi bật bên cạnh giới tinh hoa Khiết Đan, như những người mang họ Hàn (韓) là những người bị quân Khiết Đan bắt từ Ký châu và hậu duệ của họ, họ bị Khiết Đan hóa hoàn toàn về mặt ngôn ngữ và văn hóa, phục vụ trên các cương vị quân sự và chính trị cho triều đình Liêu cùng với các gia tộc người Hán bị Khiết Đan hóa khác. Sự trung thành của người Hán tại Liêu đối với các hoàng đế Khiết Đan khiến cho triều Tống thất vọng. Phụ nữ Khiết Đan xuất thân từ hậu thị (Tiêu) gả cho các gia đình người Hán. Hàn Đức Nhượng là một quan lại người Hán, ông có quan hệ gần gũi với hoàng tộc Khiết Đan, tổ tiên của ông phục vụ cho Liêu từ thời Gia Luật A Bảo Cơ, thậm chí theo truyền thuyết ông còn có quan hệ tình ái với Thái hậu Tiêu Xước.

Địa vị của phụ nữ Liêu rất khác nhau, so với người Hán thì người Khiết Đan có quan điểm bình đẳng hơn đối với phụ nữ. Người Hán tại Liêu không bị ép buộc phải theo phong tục Khiết Đan, và trong khi một số người bị Khiết Đan hóa, nhiều người còn lại thì không.[64] Không giống như xã hội Hán, mà theo đó có sự tách biệt nghiêm ngặt về trách nhiệm của mỗi giới, và đặt phụ nữ trong một vai trò hết sức phụ thuộc vào nam giới, phụ nữ Khiết Đan ở Liêu được làm nhiều nhiệm vụ tương tự như nam giới Khiết Đan.[65] Phụ nữ Khiết Đan được dạy cách săn bắn, quản lý đàn gia súc, tài chính hay tài sản khi chồng của họ ở ngoài chiến trường.[65][66][67] Phụ nữ thượng tầng Khiết Đan có thể nắm giữ các chức vụ trong chính quyền và quân đội.[67]

Mặt nạ phụ nữ bồi táng thời Liêu

Quyền tự do tình dục của người Khiết Đan cũng hoàn toàn trái ngược với người Hán, song phụ nữ thuộc thượng tầng Khiết Đan cũng phải tuân theo các cuộc hôn nhân sắp xếp như phụ nữ thượng tầng người Hán, trong một số trường hợp là vì mục đích chính trị.[68][69] Tuy nhiên, phụ nữ hạ đẳng của người Khết Đan không phải tuân theo các cuộc hôn nhân sắp đặt, họ sẽ thu hút nam giới cầu hôn bằng cách hát và nhảy múa. Các bài hát như là lời tự giới thiệu, nữ giới kể về vẻ đẹp của họ, vị thế gia đình, và kỹ năng nội trợ. Trinh tiết không phải là một yêu cầu trong hôn nhân của người Khiết Đan, và nhiều phụ nữ Khiết Đan lạm giao trước khi kết hôn, tương phản rõ rệt với suy nghĩ của người Hán.[68] Phụ nữ Khiết Đan có quyền ly dỵ chồng và có thể tái hôn sau khi ly dị.[67]

Bắt cóc nữ giới đã đến tuổi kết hôn phổ biến dưới thời Liêu, theo đó nam giới Khiết Đan thuộc tất cả các tầng lớp xã hội đều tham gia vào hoạt động này, những người bị bắt cóc có thể là người Khiết Đan và Hán. Trong một số trường hợp, đây là một bước trong quá trình tán tỉnh, nơi người nữ sẽ đồng ý với một vụ bắt cóc và tiến tới hành vi giao cấu, và sau đó người bắt cóc và bị bắt cóc sẽ trở về ngôi nhà của người nữ để thông báo ý định kết hôn của họ. Quá trình này được gọi là bái môn (拜門). Trong các trường hợp khác, các vụ bắt cóc là không liên ứng và kết quả là một vụ hiếp dâm.[70]

Tại Liêu, phong tục hứa hôn được nhìn nhận quan trọng ngang, nếu không là hơn, so với kết hôn, và sẽ khó khăn nếu muốn hủy bỏ. Chú rể sẽ cam kết làm việc ba năm trong gia đình cô dâu, và phải trả sính lễ, cho gia đình cô dâu nhiều quá tặng. Sau ba năm, chú rể được phép đưa cô dâu trở về nhà mình, và cô dâu thường sẽ cắt đứt mọi quan hệ với gia đình của cô.[71] Phong tục kết hôn của người Khiết Đan cũng khác biệt nhiều so với người Hán. Đàn ông Khiết Đan thuộc tầng lớp ưu tú có xu hướng kết hôn với những phụ nữ lớn tuổi hơn họ, và thường xảy ra trường hợp vợ lớn tuổi hơn nhiều so với chồng. Trong hoàng tộc Da Luật, độ tuổi kết hôn trung bình (lần đầu) của nam giới là 16, trong khi độ tuổi kết hôn trung bình của nữ giới là từ 16 đến 23. Mặc dù hiếm khi xảy ra, song cũng có các trường hợp nam giới và nữ giới kết hôn khi mới 12 tuổi.[72] Người Khiết Đan có một loại chế độ đa thê đặc biệt là 'thê tỉ muội hôn', theo đó một nam giới có thể kết hôn với hai chị em hoặc nhiều hơn, được tiến hành trong tầng lớp tinh hoa của Liêu.[67][73] Đa thê không bị hạn chế trong thê tỉ muội hôn, một số nam giới có ba vợ hoặc hơn nữa, và chỉ một vài trong số họ là chị em. Thê tỉ muội hôn' tiếp tục tồn tại trong suốt chiều dài của Liêu, bất chấp khi triều đình ban hành các luật cấm.[73] Suốt thời Liêu, tầng lớp ưu tú của Liêu dần chuyển từ đa thê sang phong tục của người Hán là có một vợ và một hoặc nhiều thiếp.[73] Điều này được thực hiện phần lớn là để cho quá trình thừa kế diễn ra êm thấm.[67]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nhà_Liêu http://www.britannica.com/EBchecked/topic/338833 http://images.gg-art.com/viewNews/index_b.php?news... http://id.loc.gov/authorities/subjects/sh85024064 http://www.apu.ac.jp/~yoshim/B4.pdf http://www.chiculture.net/1702/html/1702c15.html http://www.jstor.org/stable/1005570 http://www.jstor.org/stable/25066819 http://authority.ddbc.edu.tw/place/search.php?ml=%... http://authority.ddbc.edu.tw/place/search.php?ml=%... http://bachkhoatoanthu.vass.gov.vn/noidung/tudien/...